(Thethaovanhoa.vn) - Tết Nguyên Đán là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam, cùng với văn hóa Tết Âm lịch của các nước Đông Á. Tết người Việt có các lễ cúng Táo quân, cúng tất niên, lễ tảo mộ, cúng giao thừa trừ trịch, cúng nguyên đán, cúng tịch điện...
Vì Tết tính theo Âm lịch nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà rơi vào giữa những ngày này.
- Dự báo thời tiết Tết Nguyên đán Canh Tý 2020 chi tiết từ 30 Tết đến mùng 5 Tết
- Để Tết nay vui như Tết xưa: Cần sự sẻ chia và những tấm chân tình
Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 nông lịch trên đất nước Việt Nam. Sắm đào và quất ở miền Bắc, miền Trung hay mai ở Miền Nam được coi là sự chuẩn bị không thể thiếu trong những ngày giáp Tết. Sau đó, trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, dành những lời chúc mừng tốt đẹp, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên... Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ.
Từ tết trong tiếng Việt là âm Hán Việt cổ của chữ 節, mà âm Hán-Việt hiện đại đọc là tiết. Tết và tiết đều bắt nguồn từ âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ “節”. “Tết” xuất hiện trước “tiết”, vào giai đoạn chữ "tiết" 節 có âm đọc trong tiếng Hán trung cổ là tset. “Tiết” xuất hiện sau “tết”, vào giai đoạn âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ "tiết" 節 đã biến đổi thành tsiet. Ban đầu cả "tết" và "tiết" đều được phát âm giống như âm đọc của chữ "tiết" 節 trong tiếng Hán ở thời điểm chúng được tiếng Việt du nhập, về sau do sự biến đổi của ngữ âm tiếng Việt cách phát âm của chúng đã thay đổi thành "tết" và "tiết" như hiện nay.
Văn hóa Đông Á thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước, do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã phân chia thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thừa" trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán. Sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Tết cung đình tôn nghiêm và quyền lực thời phong kiến Việt Nam
Tết Nguyên đán trong cung đình thời Nhà Trần (1226-1400)
Tết Nguyên đán trong cung đình được nhà Trần tổ chức rất trọng thể, kéo dài từ ngày lập Xuân đến tận tháng Hai.
Tháng Chạp, ngày lập Xuân, các quan văn võ mặc lễ phục, cài hoa lên đầu, vào Đại nội dự yến.
Ngày 28 tháng Chạp, các quan tháp tùng Vua ra tế đền Đế Thích ngoài thành Thăng Long.
- Sáng 30 Tết, vua ngự trên Đoan Cung, các quan vào làm lễ rồi xem múa hát. Buổi chiều, Vua sang cung Động Nhân bái yết Thượng hoàng. Đêm đến, các vị sư vào Đại nội tụng kinh và làm lễ Khu ma (lễ đuổi ma quỷ).
- Mồng 1 Tết, khoảng canh 5, Vua ra điện Vĩnh Thọ cho con cháu và quan tướng làm lễ bái hạ. Sau đó, Vua đến cung Trường Xuân, hướng về các lăng tiên tổ làm lễ vọng bái. Buổi sáng, vua ra điện Thiên An, Hoàng hậu và phi tần đã chờ ở đấy, các quan nội thần trên điện, nhạc công tấu nhạc trước sân rồng, các hoàng tử, thân vương cùng các quan tướng xếp hàng làm lễ bái hạ và dâng 3 tuần rượu.
Xong, các hoàng tử lên điện, các quan nội thần ngồi bên tiểu điện phía Tây, các quan ngoại thần ngồi hai bên tả hữu. Vua cùng mọi người dự yến đến trưa và sai thợ làm nhanh đài Chúng tiên hai tầng, trang trí vàng bạc sáng ngời, đặt ở trước điện. Vua ngồi lên đài, các quan quỳ lạy dâng 9 tuần rượu chúc thọ rồi ra về.
- Mồng 2 Tết, quan tướng ăn Tết tại gia.
- Mồng 3 Tết, Vua ngự trên lầu Đại Hưng xem hoàng tử, con quan và các nội giám đánh cầu-một trò chơi thượng võ đầu Xuân rất được ưa chuộng nơi cung đình nhà Trần.
- Mồng 5 Tết, làm lễ khai hạ (nhân dân thì tổ chức vào mồng 7 Tết), Vua ban yến ở nội điện; quan tướng đến dự yến xong, du ngoạn vườn Thượng uyển hoặc đi lễ các đền chùa ngoại thành.
- Rằm tháng Giêng, giữa sân trong cung dựng một cây đèn khổng lồ (gọi là đèn Quảng chiếu), trên thắp hàng vạn ngọn sáng rực cả trời đất. Các vị sư đi quanh đèn tụng kinh, còn quan tướng thì làm lễ Triều đăng.
Tết Nguyên đán trong cung đình thời Nhà Lê-Trịnh (1599-1786)
Tết Nguyên đán trong cung đình thời nhà Lê-Trịnh ngắn hơn và nặng về nghi lễ, ít trò vui chơi giải trí.
- Sáng mồng 1 Tết, Tiết chế phủ (con trai cả của chúa Trịnh) vâng lệnh chúa dẫn quan tướng mặc lễ phục vào chầu Vua Lê, làm lễ chúc mừng năm mới.
Trước đó một ngày, Ty Thượng thiết đã đặt ngự toạ ở điện Kính Thiên, bày hương án trước ngự toạ. Ty Giáo phường chuẩn bị Thiều nhạc, Đại nhạc phía Đông-Tây sân rồng. Ty Thủ vệ dàn cờ quạt, khí giới theo đúng nghi thức. Giữa công đường, bộ Lễ, Ty Nghi chế đặt một chiếc án, trên đó để tờ biểu của sứ Ty Đô tổng binh. Thừa chính cùng Ty Hiến sát chúc mừng Vua. Các quan bộ Lễ và Ty Thừa trực đêm ở công đường, đợi tới gần canh 5 thì rước án biểu vào cung, trên che tàn vàng, cờ trống và nhạc đi trước, văn võ theo sau. Cục Thừa dụ khiêng án biểu đến cửa Đoan Môn, đặt ở phía Đông sân rồng.
Trống nghiêm hồi thứ nhất, các quan xếp hàng ngoài cửa Đoan Môn.
Trống nghiêm lần thứ hai, viên Đạo lễ dẫn Tiết chế phủ vào điếm trước sân rồng ngồi chờ. Trống nghiêm hồi thứ ba, các viên chấp sự vào điện Vạn Thọ lạy 5 lạy 3 vái rồi rước vua ra điện Kinh Thiên. Viên Đạo lễ dẫn Tiết chế phủ vào đứng ở sân rồng. Các quan văn võ xếp hàng hai bên Đông-Tây sân rồng. Các quan Ty Thừa và triều yết đứng ngoài cửa Đoan Môn. Vua lên ngự toạ. Giáo phường tấu nhạc. Quan Tuyên biểu quỳ tâu và dâng biểu chúc mừng. Quan đại trí từ đọc lời cầu chúc của Tiết chế phủ và bách quan văn võ. Quan Truyền chế đọc lời đáp của Vua. Các quan lạy tạ 4 lần. Nhạc tấu khúc Hưu minh, Vua lên kiệu về cung, kết thúc buổi chầu.
Ở phủ chúa Trịnh, viên Tư thiên giám chọn giờ tốt để chúa đi lễ Thái Miếu, Cung Miếu. Mồng 1 Tết, hiệu Thiên hùng bắn súng, hiệu Thị trung đánh trống, quân cấm vệ đứng hầu hoặc đi tuần xung quanh... Chúa lễ xong, phiên Binh ban thưởng tiền xuân cho quan tướng. Tiết chế phủ dẫn các quan xếp hàng tiến vào lạy mừng. Chúa ban yến. Dự yến xong, các quan làm lễ tạ ơn, rồi sang phủ Tiết chế chúc mừng năm mới, sau đó về ăn Tết tại gia.
Tết Nguyên đán trong cung đình thời Nhà Nguyễn (1802-1945)
Trong cung đình nhà Nguyễn, ngày 20 tháng Chạp làm lễ Phát thức (lễ rửa ấn). Các quan mặc áo xanh, ra chầu ở điện Cần Chính. Vua đến, mọi tủ chứa ấn đều được mở. ấn được rửa bằng nước thơm rồi niêm phong cẩn thận, không dùng trong dịp Tết.
- Ngày 22 tháng Chạp, làm lễ Hạp hương (lễ mời các tiên đế về ăn Tết) ở điện Thái Miếu.
- Ngày 30 tháng Chạp, làm lễ Thượng tiên (lễ dựng cây nêu). Vua ra điện Thái Hoà dựng nêu xong, dân chúng mới được dựng ở nhà mình. Cũng ngày hôm ấy, tổ chức thiết triều cuối năm. Tại điện Thái Hoà, đặt một hoàng án để tờ biểu của quan lại trung ương, một hoàng án để tờ biểu của quan lại địa phương chúc mừng Nhà Vua. Giữa điện trải chiếu bái cho các hoàng tử, hoàng thân, hai bên là chỗ bái của các quan văn võ từ tam phẩm trở lên. Các quan từ tứ phẩm trở xuống đứng dưới sân rồng. Hai phía Đông-Tây có tám hàng lính cấm vệ dàn hầu và đội nhạc cung đình tấu nhạc.
- Sáng mồng 1 Tết, đầu canh năm, trống nghiêm hồi thứ nhất, viên Quản vệ dàn bày cờ quạt, nghi trượng... Trống nghiêm hồi thứ hai, các quan mặc lễ phục vào chực sẵn trên sân điện Thái Hoà. Mờ sáng, trống nghiêm hồi thứ ba, trên kỳ đài kéo cờ đại và các sắc cờ khánh hỷ. Quan Khâm thiên giám báo giờ. Vua đội mũ cửu long, mặc hoàng bào, cầm hốt trấn khuê ngự ra điện Cần Chính rồi được mời lên kiệu, long trọng rước sang điện Thái Hoà. Nhạc tấu, 9 phát súng lệnh nổ, viên thái giám đốt hương trầm, quan nội các tiến lên hoàng án lấy biểu chúc mừng trao cho quan tuyên đọc. Đọc xong, các quan lạy tạ. Quan phụng chỉ đọc lời đáp của Vua. Nhạc tấu khúc Hoà bình, Vua lên kiệu về điện Cần Chính. Tại đây, các hoàng thân, hoàng tử và quan văn võ từ tứ phẩm trở lên chia ban đứng hầu. Thái giám dẫn các hoàng đệ, hoàng tử nhỏ tuổi đến lạy mừng, lạy 5 lạy. Vua ban yến và thưởng tiền xuân cho mọi người...
- Mồng 1 và mồng 2 Tết, nhà vua tiếp tục ban yến cho hoàng tộc và quan tướng. Mồng 4 Tết, cử hành lễ Triều minh: Vua đi tế lễ các đền miếu quốc gia. Cũng trong dịp đầu năm, tổ chức lễ Tịch điền: Vua đích thân cầy ruộng để làm gương cho dân chúng.
Từ năm 1829 trở đi, còn cử hành thêm lễ Nghênh xuân, lễ Tiến xuân, lễ Xuất binh,... rất tưng bừng. Từ đời Đồng Khánh về sau, các vua Nguyễn thường tổ chức du xuân để thưởng thức cảnh năm mới và xem dân chúng vui Tết.
Thảo Nhi (Theo TTXVN, thông tin tư liệu, Wiki, xuavanay.vn)
Tags