Vĩnh biệt nhà thơ Trần Tuấn Kiệt: Bông vải bay về trời...!

Thứ Tư, 09/10/2019 00:11 GMT+7

Google News

(Thethaovanhoa.vn) - Trần Tuấn Kiệt với bút hiệu Sa Giang từng được giải nhất về thơ năm 1971 với tập Lời gởi cây bông vải. Ông sinh ngày 1/6/1939 tại Sa Ðéc, mất lúc 17h15 ngày 8/10/2019 tại TP.HCM, thọ 81 tuổi.

Thuở bé ông sống với bà ngoại tại vùng tản cư ở Đồng Tháp Mười. Năm 1950, lúc 11 tuổi lên Sài Gòn, ông đậu hạng nhất môn thổi sáo ở Trường Quốc gia âm nhạc, theo học một năm rồi bỏ ngang.

Chú thích ảnh
Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt. Ảnh: tư liệu

Khởi đầu nghiệp văn, ông được Nhất Linh, Nguyễn Vỹ, Tam Ích giới thiệu vào làng báo. Từ cuối thập niên 1950 ông đã cộng tác với hàng chục báo và tạp chí... Tuy viết đủ thể loại, nhiều bút danh, nhưng sáng tác chính và nổi trội của ông vẫn là thơ.

Thơ Trần Tuấn Kiệt thường cô đọng, giàu hình ảnh, triết lý nhẹ nhàng. Phần nhiều các bài đều ngắn, gần như đoản khúc, cảm xúc chân thực, nên dễ thấm vào lòng người yêu thơ.

Xa

trăng ơi ngủ với hồn ta

đầu hôm nghe vọng tiếng gà bình minh

lá kia sương bỗng rung cành

khói đồi chim lạ kêu thành xuân thu

ngàn hoa mai trắng lũng sau

hương đèo bóng núi chìm sâu tiếng rừng

cách tràng giang đến ngàn rừng

mà ta vẫn nhớ thương từng bước em

Những trường ca chính ông đã viết như Bài ca thế giới, Ngôi đền cổ, Trường ca đất, Triền miên ngâm khúc hồng hạc, Niềm hoan lạc của thần linh và địa ngục, Lạc đạo thi..., có bài dài cả ngàn câu.

Ông đã xuất bản nhiều tập thơ, tiêu biểu có các tập Nai, Cổng gió, Cỏ nội, Mê cung, Màu kỷ niệm, Lời gởi cây bông vải

Chú thích ảnh
Cuốn biên khảo "Thi ca Việt Nam hiện đại (1880-1965)", dày gần 1.200 trang. Ảnh: tư liệu

Về biên khảo, ông có cuốn Thi ca Việt Nam hiện đại (1880-1965), dày gần 1.200 trang, rất công phu, giới thiệu được nhiều nhà thơ lạ và hay.

Ngoài 2 bút hiệu chính là Trần Tuấn Kiệt và Sa Giang, ông còn dùng nhiều bút hiệu khác. Ông đã xuất bản hai 200 cuốn truyện kiếm hiệp, thần thoại, kỳ tình với bút hiệu Lan Sơ Khai, Hồng Lĩnh Sơn, Xuân Thu…; nhiều sách võ thuật ký Phi Long, Hồng Lĩnh, Ðại Tâm…; nhiều sách về tư tưởng ký Duy Thức, Việt Hoàng, Việt Thần...

Ông là một cao thủ của Tây Sơn Nhạn, một phái lớn trong Thiếu Lâm nội quyền. Nhiều năm dạy võ.

“... Tuy nhiên Bùi Giáng rất khó về mặt thi ca và tư tưởng, khó có thể chơi thân với ai. Sau này có lần tôi ghé thăm ông ở căn nhà gần chùa Già Lam kéo nhau ra ngoài uống rượu đế. Ông nói: Đương thời mình viết họ còn không hiểu gì, bây giờ làm sao hiểu được nữa, coi có vẻ việc làm của mình không ăn thua gì cả… Đó là lần cuối cùng tôi gặp ông.

Thanh Tâm Tuyền là người tôn trọng và hiểu ông nhất. Có lần tôi làm bài thơ Sài Gòn, không ký tên và gửi anh Lê Nguyên Đại. Đại gặp Thanh Tâm Tuyền đưa cho xem bài thơ. Một lát Thanh Tâm Tuyền nói: Thơ này chỉ có Bùi Giáng và Trần Tuấn Kiệt làm thôi, nhưng chắc là của Kiệt, vì ở cuối bài có nhắc tới bạn bè cũ”. Đây là đoạn trích trong bài Làm thánh hiền đời nay khó hơn thánh hiền đời xưa của Trần Tuấn Kiệt.

Vài bài thơ của Trần Tuấn Kiệt:

Nai và rừng

bây giờ ngủ chẳng yên gì

bão thưa thớt dậy tuyết bay đầy trời

rừng xanh mộng cũng dần vơi

đã nghe tiếng động gót người bên khe

con chim nằm bụi tung xòe

chiếc lông tơ mịn tan nhòe bóng đêm

với trăng thu nọ ưu phiền

với hai gạc nhỏ trơ tìm hương xa

ngàn truông tiếng vọng bao la

nỗi sầu đất lệch cùng xa xôi nguồn

mắt xanh nai đã bồn chồn

thổi tan hoang giấc mộng hồn ra đi

 

Sa mạc

đêm lay bóng nhỏ luân hồi

tiếng ca mờ ảo một trời hoang mang

bước do thái nặng muôn vàn

chưa về thánh địa còn lang thang sầu

biển buồn cát trắng chân đau

túp lều hoang vắng ngàn thâu lạnh người

 

Ghi thơ Lý Bạch

một mình với Kính Ðình sơn

mây tan trên núi gió buồn dưới khe

trời xa cánh én bay về

nghìn năm thơ lại ngã đề hư không

Trần Hữu

Đọc thêm
  • Xem thêm  ›