(Thethaovanhoa.vn) - Trong sự nghiệp của mỗi nhà văn, sự đóng góp lớn hay nhỏ, ở bất cứ thời kỳ nào đều rất đáng trân trọng. “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà…” là câu thơ nằm lòng cùng thời gian, cùng các thế hệ học tập và công chúng yêu văn chương. Tên tuổi, văn nghiệp nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh - con người nho nhã, khiêm cung luôn tỏa sáng là vì thế.
Tiếp bài Từ "nhịp hải hà" đến Cô giáo lớp em trên TT&VH số ra vừa qua, chúng ta tiếp tục câu chuyện về nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh nhân dịp ông tròn 100 tuổi.
Có lẽ cũng chịu ảnh hưởng của người bạn học, người hàng xóm sát vách thuở ấu thơ ở Quy Nhơn là Chế Lan Viên - người coi “làm thơ là một sự phi thường” - mà Nguyễn Xuân Sanh và nhóm Xuân Thu nhã tập cho rằng “Thơ không phải để hiểu mà là để cảm. Thơ chính là một cách tri thức cao cấp, mang tính hàm súc, u uẩn và huyền ảo”.
Mới tuổi 15, Xuân Sanh đã là tác giả trường ca Lạc loài, được nhà phê bình Lê Tràng Kiều - chủ bút Hà Nội báo trân trọng giới thiệu, cho đăng liền 13 số báo. Đây là một niềm vinh hạnh không dễ gì có được đối với cây bút trẻ và dấu mốc này đã khích lệ Nguyễn Xuân Sanh trong suốt cuộc đời sáng tác. Tác phẩm đầu tay của ông đã phá vỡ những chuẩn mực thơ truyền thống, phá vỡ sự liền mạch của Thơ mới, với những câu đầy ấn tượng: Gió trắng se mùa thơm dáng liễu/ Xa vời nẻo nhạt xanh buồn xanh...
"Tạo cho thơ sức lôi cuốn mê đắm, kỳ ảo"
Sau một năm có thơ in báo, chàng trai tuổi 16 (1936) tiếp tục trình làng bài thơ Xây mơ gửi tặng Chế Lan Viên. Khuynh hướng siêu thực, tượng trưng thể hiện khá đậm trong bài thơ: Tay sương lam mờ đương buông tơ/ Nghe sương lam mờ đường giăng mơ/… Nghe mộng ngọt ngào xuôi bến mắt/ Đêm tàn hồn tôi đương buông tơ.
Ngay sau đó bài thơ Xây mơ được đăng báo Tiếng địch ở Huế và năm 1940 nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát đã phổ nhạc thành ca khúc cùng tên nổi tiếng.
Năm 1939, khi đã thành danh trên văn đàn, Nguyễn Xuân Sanh cùng 5 văn nghệ sĩ (Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Đỗ Cung và Nguyễn Xuân Khoát) chung chí hướng sáng tạo thành lập nhóm “Xuân Thu Nhã tập” với mơ ước xây dựng một đôi công trình tốt đẹp cho văn chương nghệ thuật và cho đời. Tên Xuân Thu Nhã tập là tổng hợp trí tuệ tập thể "Xuân Thu, theo cổ tự: Cỏ hoa nở dưới ánh mặt trời, và bông lúa chín… Sắc xuân và hương thu. Hai mùa quá độ, uyển chuyển trong khoảng cao, trong, nhẹ…” (Diệu Anh Đinh Gia Trinh).
Theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy “cuộc chạy tiếp sức của thơ Việt vào hiện đại còn chậm chạp và phải qua nhiều chặng”, nhưng người khởi động chặng đầu không ai khác là Nguyễn Xuân Sanh với Buồn xưa - một ngôi đền đơn độc và kì bí: Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi/ Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y/ Rượu hát bầu vàng cung ướp hương/ Ngón hường say tóc nhạc trầm mi/ Lẵng xuân/ Bờ giũ trái xuân sa/ Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà/ Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm/ Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa… Có thể nói Buồn xưa đã “phá vỡ tính liên tục của dòng cảm xúc và mạch liên tưởng trong thơ…”.
- Gặp lại tác giả được đưa vào sách giáo khoa (Kỳ 31): Từ 'nhịp hải hà' đến 'Cô giáo lớp em'
- Gặp lại tác giả được đưa vào sách giáo khoa (Kỳ 30): Vũ Duy Chu - Nhà văn thân thiết của các em
Từ năm 1940-1941, Nguyễn Xuân Sanh thể nghiệm thơ văn xuôi trong Đất Thơm: “Chiều nay ta chỉ yêu đồng xanh. Ta mộng cánh đồng vàng … Đồng mọi nơi sắp chín. Sắp gặt vụ mùa. Chùm bông nặng chưa chín nghiêng nhành lúa trong hạt đã gần căng. Hương đặc lùa ra bờ ruộng cỏ… Ta dành buổi chiều nhớ cánh đồng vĩnh viễn”.
Con đường đổi mới thi ca thơ không vần, thơ văn xuôi mà tác giả Buồn xưa là người vừa mới khởi đầu. Sự mở đường cách tân rất đáng trân trọng này đã tạo tiền đề cho các nhà thơ sau này tiếp tục đổi mới, sáng tạo.
Theo nhà thơ Vũ Quần Phương, những thể nghiệm của nhóm Xuân Thu nhã tập đã kích thích tìm tòi, không để thơ ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó. Mặt khác, Nguyễn Xuân Sanh cung cấp thêm cho thơ những năng lực khêu gợi tiềm ẩn độc lập trong từng chữ. Tận dụng năng lực này sẽ tạo cho thơ sức lôi cuốn mê đắm, kỳ ảo, là điều rất cần với thơ, nhất là thơ chúng ta hôm nay.
Người lành, chân chất, hồn nhiên
Quê hương tổ quán ở miền cát trắng (Quảng Ninh, Quảng Bình), nhà thơ Xuân Sanh sinh tại cao nguyên Đà Lạt ngày 16/11/1920 trong một gia đình Nho học yêu văn chương. Đầu những năm 1930, nhận nhiệm vụ làm thừa phái ở Quy Nhơn, cha ông mang con trai đi theo. Vì thế, Nguyễn Xuân Sanh theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn - nơi nhà thơ Xuân Diệu đã từng học và được thân phụ nhà thơ Xuân Diệu là thầy Tú Thọ dạy chữ Nho. Bình Định vì thế đã trở thành quê hương nuôi dưỡng tâm hồn tuổi thơ như bài thơ Nhớ dừa (tên khác là Cây dừa) của ông trong sách giáo khoa lớp 4 năm 1958: Em nhớ trái dừa tròn/ Của quê em Bình Định/ Lấy ngón tay em tính/ Ngày trở lại vườn dừa.
Lớn lên, Nguyễn Xuân Sanh được bố mẹ cho ra Hà Nội học trung học, đại học và lập nghiệp ở Thủ đô. Từ năm 1940, ông tham gia phong trào học sinh yêu nước, làm chủ bút ba tuần báo của Tổng hội Sinh viên cứu quốc: “Tự trị”, “Gió mới” và “Hành động”.
Từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1949, Nguyễn Xuân Sanh hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc. Giữa năm 1949, ông công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam tại Việt Bắc; chủ bút tờ báo “Sáng tạo”; ủy viên thường trực Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam (1950-1957). Năm 1957, tại Đại hội thành lập Hội Nhà văn Việt Nam khóa I, ông giữ cương vị Phó Tổng thư ký (nhà văn Tô Hoài là Tổng Thư ký); ủy viên Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam khóa I, II, III; Hiệu trưởng Trường Bồi dưỡng những người viết văn trẻ (1966-1975), Trưởng ban Đối ngoại, Trưởng ban Nhà văn trẻ, Chủ tịch Hội đồng văn học dịch, Ban giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hội đồng giáo dục Trường viết văn Nguyễn Du (2 khóa).
Nguyễn Xuân Sanh sinh cùng năm với các nhà thơ, nhà văn Chế Lan Viên, Tô Hoài, Tố Hữu, Kim Lân…Chế Lan Viên, Huy Cận vốn là bạn tuổi thơ, gắn bó, cùng chung nhiều kỷ niệm. Ông được bạn bè trân quý bởi bản tính lành hiền, nhỏ nhẹ, chân chất, nguyên sơ sự hồn nhiên, phong thái sống khoan thai, nhẩn nha, chậm rãi… Ông đôn hậu, hồn nhiên, thành thật với lòng mình không kiêng dè, giấu giữ và cũng không ngại làm mếch lòng ai.
Bạn văn chương vẫn không quên câu chuyện vui do nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi kể. Tại lễ tổng kết một khóa học tại Trường Bồi dưỡng những người viết văn trẻ ở Quảng Bá, với cương vị Hiệu trưởng, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh phát biểu, nhắc nhở học viên cần trau dồi đạo đức, bồi dưỡng nhân sinh quan cách mạng, đừng có sa đà vào lối sống tự do, bê tha… như một số nhà văn trước Cách mạng. Tất nhiên câu nói đó đã chạm lòng tự ái của một số nhà văn cùng dự như: Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng... Nhà văn Nguyên Hồng nói “mát” nhỏ nhẹ xa xôi: "Như tôi và anh Nguyễn Tuân thì nhiều cái xấu xa lắm, các bạn trẻ đừng nên bắt chước. Có bắt chước thì bắt chước ông Nguyễn Xuân Sanh, cũng là lớp nhà văn cũ đấy nhưng toàn điểm tốt chứ không có điểm gì xấu đâu". Nghe thế, nhưng nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh cũng không thanh minh, không cải chính và vẫn bình thản đọc tiếp (Chuyện vui các nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB Thanh niên, 1990)…
Đằng sau một người đàn ông thành đạt là người phụ nữ. Làm vợ một nhà thơ lãng mạn, lãng đãng quả là không dễ. Có lẽ trong làng văn Việt Nam thật hiếm có “cặp uyên ương” văn chương như nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh - nhà văn Nguyễn Thị Cẩm Thạnh với “tình yêu không tuổi/ Ngàn đời vẫn xanh”, bền bỉ, vĩnh hằng như đã từng “nợ duyên nhau từ kiếp trước”. Bà vốn là nữ sinh Đồng Khánh (Huế) cùng quê Quảng Bình, Bí thư Tỉnh đội Phụ nữ cứu quốc đầu tiên của tỉnh Quảng Bình và là người phụ nữ được coi là hiếm hoi tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 2 (1963-1983) và phụ trách tuần báo Văn nghệ thời gian dài. Bài thơ Trước xuân, thăm chùa Hương, ông dành tặng người vợ hiền thục, dịu dàng, người đồng chí luôn sát cánh bên chồng, chungxây tổ ấm hạnh phúc với lòng biết ơn sâu sắc:Vắt ngang núi cũ xuân hồng ngày nay/ Đò đi ngược suối. Cuối đông/ Lòng anh những muốn tìm xuân trước ngày...Vắng em. Không thể cầm tay/ Đường đi vẫn thấy đó đây hai mình.
Trong hành trình bên nhau, ông bà cùng chung nỗi đau từ hơn nửa thế kỷ khi “lá xanh rụng trước”. Người con trai đầu Nguyễn Việt Lưu đã hy sinh tại chiến trường Phú Yên năm 1968. Hiện tại, Nguyễn Xuân Sanh tuổi 100 và bà Nguyễn Thị Cẩm Thạnh 93 tuổi được con gái - PGS-TS Nguyễn Việt Triều - nguyên cán bộ của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, phụng dưỡng.
Chị Nguyễn Việt Triều tâm sự về đấng sinh thành: “Trong cuộc sống, cha mẹ tôi luôn nhường nhịn nhau. Hiếm thấy bố mẹ tôi to tiếng. Mẹ tôi là người quán xuyến công việc trong gia đình, con cái, còn cha tôi, ông miệt mài bên những trang văn. Ngày còn khỏe mạnh minh mẫn, ông ngồi suốt ngày bên bàn làm việc, ông đọc nhiều, viết nhiều và cũng bởi vậy, ông sống lãng mạn, nhẹ nhàng như những trang viết đầy xúc cảm của ông. Ông không bao giờ quát mắng con, không ép con phải theo ý mình. Gia đình chúng tôi sống hòa thuận và ấm áp”.
Vài nét về sự nghiệp Nguyễn Xuân Sanh Suốt cuộc đời cầm bút, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh đã để lại một gia tài văn chương đáng nể. Xuân Thu nhã tập là cuốn sách xuất bản đầu tiên của của nhóm năm 1942. Ngoài tác phẩm văn xuôi Anh hùng Trần Đại Nghĩa (1953), Nguyễn Xuân Sanh là tác giả của nhiều tập thơ: Chiếc bong bóng hồng (1957), Tiếng hát quê ta (1958), Nghe bước xuân về (1961), Quê biển (1966), Đảo dưa đỏ (1974), Đất nước và Lời ca (1978), Tuyển tập Nguyễn Xuân Sanh (1991), Một vườn thơ năm châu (1997), thơ văn xuôi Đất thơm (viết 1940-1945, in 1995). Ông là dịch giả thơ cho nhiều nhà thơ các nước (Ba Lan, Nga, Luxembourg, Pháp, Canada, Israel, Sénégal, Rumani, Bungary…). Có thể kể đến những tập thơ dịch: “Thơ Victo Huygo” (1986), Tuyển tập thơ Pháp (3 tập, 1989-1994), “Toàn tập 11 tác phẩm của nhà thơ Thụy Điển Tômax Tranxtrômer” (1995)… Nguyễn Xuân Sanh vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (năm 2001); Giải thưởng ngoại hạng Hội Nhà văn Việt Nam (1951-1952) cho tác phẩm “Anh hùng Trần Đại Nghĩa” – Giải thưởng tôn vinh các nhà văn viết về Anh hùng và Chiến sĩ thi đua. Năm 1982, ông được nhà nước Ba Lan tặng Huân chương công trạng. |
PGS.TS Lê Thị Bích Hồng
Tags