(Bài dự thi) - 1. Chẳng biết cái tên “rừng Sác” có trong nhận thức của tôi tự bao giờ. Những mường tượng của tôi về địa danh này, qua những lời kể của bè bạn, đơn thuần là khu du lịch biển, đảo khỉ... với biết bao là hoang sơ, nhiều tính “hương xa”.
Thế nên, vừa nhận được lời mời từ anh bạn học: “vào rừng Sác” ở với những người giữ rừng là tôi hăm hở đi ngay.
Muốn qua nhà dượng Hai, tôi phải chờ rất lâu để chiếc xuồng ba lá nhỏ nhỏ rước. Xuồng đi loanh quanh trong rừng rồi mới đến được “ốc đảo” có nhà. Nhà có 2 người và 1 chó. Hai vợ chồng có mấy người con thì gửi đi Sài Gòn học cả, hai vợ chồng bám lại đất này. Dì Hai lấy chồng mười lăm năm thì cũng chừng ấy thời gian ở luôn trong rừng.
Tiếng là làm việc nhà nước, nhưng dượng Hai rất sướng. Sáng sáng dượng bơi xuồng đi nhậu, vợ ở nhà cho vịt ăn, đục hàu, nấu cơm chờ chồng về. Ngày 2 buổi, dì Hai đạp chiếc xe cà tàng không thắng không pedal đi đóng mở cống xi măng cho kịp con nước lớn nước ròng.
Tôi nghĩ về “c*c bần”, tôi nghĩ về cháu dì, tôi nghĩ về ngôi nhà này, về chái bếp âm u, về căn nhà trơ trọi không có điện, về những rổ, những rá mà vì chống chuột, dì Hai treo chúng lên trần nhà… Dì Hai chắc sợ cháu mình rồi sẽ quen xài những từ mà dì tự thấy nó “quê kệch”...
Tôi nghĩ về cây đước, cây bần, chúng chỉ có ở đây, giữa vùng đất nước ngọt giá năm mươi ngàn một khối này. Vùng đất mà bước chân ra là nước, nhìn ra xa cũng là nước... nhưng người ta nói, nó là “lá phổi”, là “quả thận” của một Sài Gòn trù phú, nhưng ô nhiễm. Không có Cần Giờ, không có rừng Sác, người Sài Gòn hẳn sẽ thấy hơi thở của mình ngột ngạt lắm chứ chẳng chơi.
Lê Hữu Hoài