Ngày 15/3/1953, tại khu Đồi Cọ thuộc xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập "Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam", chính thức đặt nền móng cho sự phát triển của ngành điện ảnh cách mạng Việt Nam.
Bảy thập kỷ qua, điện ảnh cách mạng Việt Nam luôn là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa của Đảng, làm tròn nhiệm vụ phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân và nay đang mạnh mẽ hội nhập với điện ảnh khu vực và thế giới.
Hòa cùng dòng chảy dân tộc
Điện ảnh cách mạng Việt Nam đã hình thành từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử. Những thước phim đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam ra đời ở hai trung tâm điện ảnh đầu tiên: Bưng Biền (Long An) và Đồi Cọ (Thái Nguyên) những năm 1946-1947. Đó là những thước phim tài liệu chân thực, sống động về cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp vô cùng anh dũng của nhân dân ta mà ngày nay đã trở thành bằng chứng lịch sử vô giá. Có thể kể đến những bộ phim như Trận Mộc Hóa, Chiến dịch Cao- Bắc-Lạng, Chiến thắng Đông Khê, Chiến thắng Tây Bắc… Trong bối cảnh 2 cuộc kháng chiến, những thước phim tài liệu quý giá đã mang lại nhiều giải thưởng quốc tế danh giá cho điện ảnh Việt Nam.
Năm 1959, bộ phim truyện Việt Nam đầu tiên Chung một dòng sông đã ra đời, gây tiếng vang rất lớn thời điểm ấy. Với chủ đề đấu tranh thống nhất đất nước, thông qua tình yêu của Vận, chàng trai bên bờ Bắc và Hoài, cô gái bên bờ Nam của dòng sông Bến Hải, nơi được lấy làm giới tuyến tạm thời chia cắt hai miền Nam-Bắc lúc bấy giờ, bộ phim đã lay động sâu sắc tình cảm của đông đảo khán giả.
Sau thành công của Chung một dòng sông, một loạt phim về đề tài cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc được sản xuất, trong đó có nhiều bộ phim khá thành công, như: Chim vành khuyên, Chị Tư Hậu, Kim Ðồng, Lửa trung tuyến, Cù Chính Lan, Khôn dại... Trong lĩnh vực phim tài liệu và phim hoạt hình cũng có nhiều tác phẩm xuất sắc, như: Nước về Bắc Hưng Hải, Cây tre Việt Nam, Anh Nguyễn Văn Trỗi sống mãi, Giữ làng giữ nước, Việt Nam trên đường thắng lợi, Ðáng đời thằng cáo, Binh ong, Cây đa chú Cuội... Như vậy, chỉ trong vòng năm, sáu năm, điện ảnh Việt Nam có thể sản xuất được tất cả các thể loại phim, đã có những phim đi vào lịch sử điện ảnh dân tộc như tác phẩm điện ảnh kinh điển mà ngày nay các nhà làm sử điện ảnh gọi là thời kỳ đầu của điện ảnh cách mạng Việt Nam.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Thực hiện khẩu hiệu "tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", ngành điện ảnh có thêm nhiều cơ sở sản xuất phim mới, như: Ðiện ảnh giao thông vận tải, Ðiện ảnh Hà Nội, Ðiện ảnh Hải Phòng, Ðiện ảnh Công an nhân dân vũ trang... và vẫn duy trì sản xuất phim truyện. Ở miền nam, Ðiện ảnh Giải Phóng, Ðiện ảnh Quân giải phóng, Ðiện ảnh khu 5... cũng hoạt động rất tích cực. Thời kỳ này nhiều bộ phim xuất sắc đã ra đời, như: Nổi gió, Ðường về quê mẹ, Chuyện vợ chồng anh Lực, Người về đồng cói, Bài ca ra trận, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Tiền tuyến gọi... (phim truyện); Ðầu sóng ngọn gió, Lũy thép Vĩnh Linh, Những người săn thú trên núi Ðắc Sao, Những người dân quê tôi... (phim tài liệu - thời sự); Con khỉ lạc loài, Chuyện ông Gióng, Khăm phạ - Nàng Ngà (phim hoạt hình)...
Không thể kể hết số lượng phim Việt Nam đã được công chiếu, nhưng trong ký ức người dân cả nước vẫn in đậm một thời "vàng son" của điện ảnh nước nhà. Song hành với sự trưởng thành của ngành sản xuất, phát hành phim, mạng lưới trung tâm điện ảnh, đội chiếu phim lưu động cũng đã hình thành trong cả nước, công tác phổ biến phim nhờ vậy ngày càng mở rộng từ thành thị đến nông thôn và len lỏi khắp vùng sâu, vùng xa, từ miền núi đến hải đảo.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, các văn nghệ sĩ ngành điện ảnh ở miền Bắc được biên chế thành những đoàn làm phim xung kích bám sát các đoàn quân ở khắp các mặt trận và tiến vào giải phóng Sài Gòn. Họ là những người làm văn nghệ có mặt sớm nhất trong những cánh quân chiếm giữ dinh Ðộc Lập vào ngày 30/4/1975, thực hiện nhiều bộ phim có giá trị như Thành phố lúc rạng đông, Ðường tới thành phố, Những bước đường thắng lợi, Sài Gòn tháng 5/1975, Qua cầu Công Lý, Sài Gòn vui chiến thắng... Trong 15 năm (từ 1960 đến 1975) gần 300 cán bộ, nghệ sĩ điện ảnh đã hy sinh trên khắp các nẻo đường của đất nước, trên mọi trận tuyến đánh quân thù để làm phim và phục vụ đồng bào, chiến sĩ cả nước.
Đồng hành cùng phát triển, xây dựng đất nước
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, đề tài xã hội trở thành trọng tâm phản ánh của điện ảnh cách mạng Việt Nam. Một số bộ phim tâm lý xã hội được xem là đại diện tiêu biểu cho giai đoạn này là Chuyến xe bão táp, Những người đã gặp, Xa và gần, Về nơi gió cát, Ngày lễ thánh… Đề tài lịch sử cách mạng được xây dựng công phu trong Sao tháng Tám, các tác phẩm văn học hiện thực phê phán được đưa lên màn ảnh như Chị Dậu và Lãng Vũ Đại ngày ấy, cuộc sống Sài Gòn được thể hiện trong phim Mối tình đầu, Tội lỗi cuối cùng…
Với đề tài chiến tranh, các tác giả cũng có cách thể hiện khác nhau. Một số phim có tính hình tượng, tính khái quát cao, như: Cánh đồng hoang, Bao giờ cho đến tháng Mười, Mẹ vắng nhà, Chuyện cổ tích cho tuổi 17…
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, điện ảnh Việt Nam đã manh nha những cái mới với đột phá trong cách nhìn nhận, cách thức thể hiện vấn đề trong phim. Những bộ phim đổi mới đầu tiên như Thị xã không yên tĩnh, Thằng Bờm… đã tạo dấu ấn và động lực để những bộ phim sau đổi mới mạnh mẽ hơn. Các phim sau đó như Tướng về hưu, Cô gái trên sông, Gánh xiếc rong… đã gây nhiều tranh luận bởi cách khai thác vấn đề xã hội một cách trực diện. Các phim đề tài chiến tranh, đề tài hậu chiến cũng được các nhà làm phim khai thác theo hướng mới, bám sát hiện thực cuộc sống. Không chỉ phim truyện, phim tài liệu giai đoạn đổi mới cũng có sự chuyển hướng trong cách tiếp cận, khai thác vấn đề theo hướng gần gũi hơn với cuộc sống. Nhiều phim tài liệu thời kỳ đổi mới đã giành được giải thưởng trong các kỳ liên hoan phim quốc tế như: Chị Năm khùng, Trở lại Ngư Thủy, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai…
Trong vòng hơn một thập kỷ trở lại đây, điện ảnh Việt có sự phát triển rõ rệt về thể loại và xu hướng làm phim. Bên cạnh các phim truyền thống, dòng phim giải trí thương mại do các hãng phim tư nhân sản xuất, đặc biệt là phim của các đạo diễn Việt kiều ngày càng phát triển và đã thu hút sự trở lại khá rầm rộ của khán giả. Những tác phẩm như: Thời xa vắng, Mùa len trâu, Áo lụa Hà Đông, Dòng máu anh hùng, Thiên mệnh anh hùng của các đạo diễn Việt kiều là những dấu ấn đáng ghi nhận của dòng phim này.
Năm 2010 đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam tổ chức Liên hoan phim quốc tế Hà Nội, thu hút 22 nền điện ảnh tham dự, sau đó trở thành sự kiện thường niên tổ chức 2 năm/lần với nhiều hoạt động phong phú, hấp dẫn, thu hút nhiều nền điện ảnh và các tên tuổi lớn của điện ảnh thế giới tham dự, khẳng định dần vị thế trong khu vực.
Thời kỳ này cũng ghi dấu ấn sự hợp tác mạnh mẽ của các nhà làm phim trong nước với các nhà làm phim nước ngoài. Làn sóng các nhà làm phim Việt kiều về nước gia tăng, với các tên tuổi như Nguyễn Võ Nghiêm Minh, Hồ Quang Minh, Việt Linh, Charlie Nguyễn, Dustin Nguyễn, Johny Trí Nguyễn… góp thêm những màu sắc mới mẻ cho điện ảnh Việt Nam. Các hệ thống rạp chiếu hiện đại được xây dựng ở nhiều nơi, phim nhập khẩu cũng nhiều và phong phú hơn, thúc đẩy sự cạnh tranh mạnh mẽ của các nhà làm phim trong nước với phim ngoại.
Những năm trở lại đây, mặt bằng chất lượng phim Việt được nâng cao dần, không còn nhiều phim bị gọi là "thảm họa" hay "hài nhảm". Một số bộ phim đề tài chiến tranh đạt chất lượng, được trao giải tại Liên hoan phim Việt Nam và giải Cánh diều như: Mùi cỏ cháy, Những người viết huyền thoại, Những đứa con của làng, Truyền thuyết về Quán Tiên... Một số bộ phim Nhà nước đặt hàng được trao các giải thưởng quốc tế, cùng giải trong nước như Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Cuộc đời của Yến... Đặc biệt, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là phim đầu tiên Nhà nước đặt hàng, hãng phim tư nhân góp vốn sản xuất, đã lập kỷ lục doanh thu tại thời điểm phát hành với 80 tỷ đồng trong một tháng, cũng là phim đặt hàng có doanh thu cao nhất trong lịch sử điện ảnh Việt Nam.
Đáng mừng là trong những năm gần đây, một số bộ phim Việt Nam của các hãng phim tư nhân hút khách hơn cả phim Hollywood chiếu cùng thời điểm, đó là những phim vừa đạt doanh thu cao, vừa được đánh giá tốt về chất lượng như: Em chưa 18, Hai Phượng, Cua lại vợ bầu, Mắt biếc, Gái già lắm chiêu 3, Tiệc trăng máu, Bố già…
Một vài phim của các nhà làm phim độc lập như: Bi đừng sợ, Đập cánh giữa không trung, Cha và con và... được lựa chọn và trao giải tại các Liên hoan phim quốc tế lớn. Hoặc có những hãng tư nhân không đặt mục tiêu thương mại mà hướng đến "phim nghệ thuật", nên đã có một số bộ phim được trao giải tại các Liên hoan phim quốc tế khác như: Cha cõng con, Đảo của dân ngụ cư, Song lang, Nhắm mắt thấy mùa hè, Ròm...
Sau thời gian dài chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19, thị trường điện ảnh Việt Nam đang sôi động trở lại. Nếu như sản xuất phim Việt Nam trong năm 2021 chỉ đạt 20 phim (giảm hơn một nửa so 40-50 phim/năm trước đại dịch), năm 2022 đã lên hơn 30 phim. Một số hoạt động của điện ảnh Việt Nam tại các liên hoan phim quốc tế bắt đầu sôi động, đáng kể là phim truyện Tro tàn rực rỡ được chọn dự thi tại Liên hoan phim quốc tế Tokyo và gần đây được trao giải cao tại Liên hoan phim Ba châu lục Nantes (Pháp); phim tài liệu Những đứa trẻ trong sương lọt vào danh sách 15 phim đề cử giải Oscar 2022 sau khi được trao hàng loạt giải quan trọng tại các liên hoan phim quốc tế… Ngoài ra, các sự kiện điện ảnh như Cuộc thi phim ngắn Màn ảnh xanh của Hiệp hội Xúc tiến phát triển điện ảnh Việt Nam (tháng 8/2022), Cánh Diều vàng của Hội Điện ảnh Việt Nam (tháng 9/2022), Liên hoan phim quốc tế Hà Nội (tháng 11/2022) cũng đã được tổ chức thành công.
Mới đây, bộ phim Nhà bà Nữ ra rạp vào Mồng 1 Tết Quý Mão, theo nhà sản xuất, sau 24 ngày chiếu rạp đã thu 450 tỷ đồng, phá mọi kỷ lục doanh thu ở Việt Nam, và lọt top 10 phim có doanh thu cao nhất thế giới cuối tuần. Những bộ phim khác ra rạp vào dịp Tết vừa qua đã thu hút lượng lớn khán giả đến xem và ủng hộ phim Việt… Đó là những tín hiệu đặc biệt trong bối cảnh điện ảnh quốc tế và Việt Nam đã và đang dần hồi phục.
Để điện ảnh Việt vươn ra "biển lớn"
Chiến lược phát triển điện ảnh Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 xác định phát triển điện ảnh theo hướng công nghiệp, hiện đại, hội nhập quốc tế, với mục tiêu đến năm 2030 xây dựng nền điện ảnh Việt Nam có bản sắc và uy tín ở châu Á, có tác phẩm chất lượng cao, tài năng điện ảnh tầm cỡ thế giới. Điều này cũng phù hợp và đúng định hướng với những nội dung và giá trị mà Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã đặt ra với những nguyên tắc cơ bản: Dân tộc, khoa học và đại chúng.
Theo Tiến sĩ Ngô Phương Lan, Chủ tịch Hiệp hội xúc tiến phát triển điện ảnh Việt Nam, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận, phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương, điện ảnh cách mạng Việt Nam luôn có nhiệm vụ bám sát cuộc chiến đấu của nhân dân nên đối tượng phản ánh chính là cuộc sống và con người thời hiện đại. Ngày nay, trong thời đại công nghệ 4.0, xây dựng nền điện ảnh mang tính hiện đại có ý nghĩa thiết thực và cập nhật đối với sự nghiệp chung của dân tộc. Qua nhiều giai đoạn phát triển, các tác phẩm điện ảnh Việt Nam vừa mang tính dân tộc vừa mang tính hiện đại đã góp phần làm nên diện mạo của điện ảnh Việt Nam. Bên cạnh đó, những tác phẩm điện ảnh đạt được hiệu quả xã hội cao là sự thành công của những người làm điện ảnh, đó cũng là những tác phẩm có giá trị.
Điện ảnh Việt Nam trước đây chỉ được coi là ngành nghệ thuật, nhưng muốn có tác phẩm chất lượng cao, bước ra thế giới, có khả năng cạnh tranh quốc tế, thì phải phát triển điện ảnh thành ngành công nghiệp, đồng thời tăng cường xúc tiến, hợp tác, học hỏi các nền điện ảnh mạnh trên thế giới. Bà Ngô Phương Lan cũng khẳng định, để ra biển lớn, điện ảnh Việt Nam cần chắt chiu nhiều năm, tìm kiếm, bồi dưỡng, ươm mầm các tài năng trẻ, đồng thời lưu ý yếu tố bản sắc văn hóa Việt - điều làm nên sự mới lạ, độc đáo, vốn là yếu tố thu hút sự chú ý tại các liên hoan phim quốc tế… "Phim được chọn dự thi ở Liên hoan phim uy tín chắc chắn phải hay và mới lạ - nghĩa là có màu sắc riêng. Bản sắc dân tộc Việt Nam khá đậm nét và đa dạng - từ phong tục tập quán, tính cách, quan hệ ứng xử cho đến triết lý sống, tinh thần vượt khó, sức trỗi dậy của con người… - đó là cái "nền", cái "chất" làm nên những bộ phim hay và lạ. Điều mấu chốt là cách kể những câu chuyện Việt Nam bằng ngôn ngữ điện ảnh ra sao để chinh phục được người xem, nhất là người xem khó tính và "lành nghề" tại các liên hoan phim quốc tế"...
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, điện ảnh Việt Nam cần phải xây dựng cho mình một "thương hiệu" riêng và thương hiệu ấy trước hết phải gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc. Điện ảnh, giống như các loại hình nghệ thuật khác, là tấm gương phản ánh cuộc sống. Một tác phẩm điện ảnh chỉ có sức sống lâu bền khi chứa đựng trong nó giá trị nghệ thuật, giá trị nhân văn sâu sắc. Một nền điện ảnh dân tộc chỉ có chỗ đứng trong nền điện ảnh thế giới khi nó không chỉ chứa đựng tính quốc tế vốn có của điện ảnh, mà còn phải chứa đựng những giá trị cốt lõi thuộc về bản sắc văn hóa để làm nên thương hiệu điện ảnh của quốc gia dân tộc.
Hiện nay Hiệp hội Xúc tiến phát triển điện ảnh đang triển khai kế hoạch cùng Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng tổ chức Liên hoan phim châu Á thường niên tại Đà Nẵng, tháng 5/2023 sẽ bắt đầu kỳ đầu tiên. Liên hoan phim sẽ có các hạng mục thi phim châu Á, phim Việt Nam, Workshop "Ươm mầm tài năng"… với sự tham gia của các nhà làm phim nổi tiếng của Việt Nam và quốc tế cùng các chuyên gia điện ảnh hàng đầu. Hy vọng Liên hoan phim châu Á Đà Nẵng góp một tay để đưa phim Việt ra với "biển lớn".
Tags